Chất thải rắn sinh hoạt đã trở thành vấn đề nóng và ngày càng được quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Đi cùng với sự gia tăng về lượng chất thải rắn sinh hoạt là vấn đề tìm kiếm và lựa chọn các giải pháp xử lý chất thải rắn sinh hoạt một cách phù hợp để vừa bảo đảm việc xử lý không gây ô nhiễm môi trường cũng như tận dụng được rác thải như một nguồn tài nguyên.
Thời gian qua, Bộ KH&CN đã và đang đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ thông qua các chương trình, nhiệm vụ KHCN; thực hiện việc thẩm định công nghệ đối với các dự án đầu tư; thẩm định và ban hành các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, tiêu chuẩn quốc gia; các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ góp phần thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt vào thực tế.
Tuy nhiên, còn rất nhiều thách thức đặt ra đòi hỏi sự phối kết hợp chặt chẽ, kịp thời giữa các cơ quan, bộ, ngành và địa phương cũng như các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, các cá nhân, nhà nghiên cứu để giải quyết được triệt để các các thách thức trong việc xử lý chất thải rắn sinh hoạt; đồng thời hướng tới việc phát triển và ứng dụng thực tế những giải pháp công nghệ xử lý chất thải toàn diện nhất, phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Áp dụng tối đa xu thế công nghệ tái chế, tận dụng năng lượng, tài nguyên từ rác thải
Theo GS.TS. Huỳnh Trung Hải, Hiệu trưởng Trường Vật liệu, Đại học Bách khoa Hà Nội, Chủ nhiệm Chương trình KH&CN cấp quốc gia "Nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ tiên tiến phục vụ ngành công nghiệp môi trường" KC.06/21-30, các giải pháp quản lý cần đi đôi với việc phát triển và áp dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại trong xử lý chất thải rắn sinh hoạt nói riêng và chất thải rắn nói chung.
Chất thải rắn sinh hoạt tập trung ở các khu đô thị nhưng lượng phát thải không lớn, do đó, cần tính toán kỹ phương án đốt rác phát điện. Hơn nữa, chất thải rắn sinh hoạt phần lớn là rác thải hữu cơ, chất thải nông nghiệp, phụ phẩm nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn, vì vậy cần phân loại triệt để để có thể tận dụng nguồn chất thải hữu cơ làm phân bón, đẩy mạnh áp dụng nguyên lý của kinh tế tuần hoàn, gia tăng giá trị cho ngành sản xuất nông nghiệp,
Thứ trưởng Trần Hồng Thái cho rằng, trong xử lý chất thải rắn sinh hoạt, không có một công nghệ duy nhất nào được coi là tối ưu. Việc lựa chọn công nghệ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như khối lượng chất thải rắn sinh hoạt tại địa phương, loại rác thải, quy mô xử lý, nguồn lực kinh tế và môi trường. Một sự kết hợp và tối ưu các công nghệ khác nhau cũng có thể được áp dụng tùy thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi địa phương.
Bên cạnh đó, cần áp dụng tối đa xu thế công nghệ tái chế, tái sử dụng và tận dụng năng lượng, tài nguyên từ rác thải. Vấn đề quan trọng là các nhà máy xử lý chất thải rắn sinh hoạt khi đưa vào sử dụng cần bảo đảm được vận hành đáp ứng các tiêu chí về bảo vệ môi trường, bảođảm tính khả thi về hiệu quả đầu tư, vận hành và tính bền vững.
Những dự án áp dụng lò đốt có công suất nhỏ (350-1000 kg/h) là những giải pháp tình thế, tạm thời để xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại các khu dân cư nhỏ. Cần khuyến khích mô hình xử lý tập trung, quy mô đủ lớn và công nghệ hiện đại, với quy mô xử lý từ 500 tấn trở lên. Đẩy mạnh kinh tế xanh, tuần hoàn, xử lý chất thải rắn sinh hoạt kết hợp với chất thải rắn công nghiệp tại các khu công nghiệp theo mô hình tiết kiệm năng lượng, tận dụng nhiệt từ chất thải rắn phục vụ cho các hộ tiêu thụ trong khu công nghiệp.
Chất thải rắn sinh hoạt Việt Nam có độ ẩm cao, lẫn nhiều tạp chất, phân loại đầu nguồn chưa tốt… do đó công nghệ xử lý chất thải rắn phù hợp với Việt Nam phải khắc phục được những nhược điểm trên và có giá thành đầu tư phù hợp.
Thứ trưởng Trần Hồng Thái cũng khẳng định, Bộ KH&CN luôn duy trì sự hỗ trợ và đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, cũng như tạo ra môi trường kinh doanh thích hợp để khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ trong lĩnh vực này để đưa công nghệ là nhân tố trung tâm quan trọng của cuộc cách mạng xử lý chất thải, đồng thời tạo điều kiện cho sự hợp tác đa ngành, lĩnh vực, đa cấp độ giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan.