Những con số nói gì:
Theo tổ chức Lương nông thế giới, ước tính hàng năm có khoảng 50% sản lượng lương thực thế giới bị mất đi do sâu bệnh hại và cỏ dại nếu không có thuốc bảo vệ thực vật (BVTV). Tại Việt Nam 24,5 triệu hộ nông dân phụ thuộc vào các biện pháp BVTV để ngăn ngừa dịch hại và áp lực cỏ dại gây hại cây trồng làm giảm năng suất khi thu hoạch. Trong hệ thống các biện pháp BVTV, việc sử dụng thuốc BVTV từ những năm 50 của thế kỷ XX cho tới nay vẫn đang chiếm một vai trò hết sức quan trọng.
Sản xuất nông nghiệp (SXNN) không thể không sử dụng thuốc BVTV và thuốc diệt cỏ dại để bảo vệ cây trồng. Hàng năm cả nước ta bỏ ra không dưới 770 triệu USD để nhập khẩu 100.000 tấn thuốc trừ sâu bệnh các loại với 4.100 chủng loại khác nhau và 90% số thuốc đó được nhập khẩu từ Trung Quốc về. Trong khi đó tại Trung Quốc chỉ cho phép sử dụng 630 loại thuốc BVTV các loại (chỉ bằng 15,36% Việt Nam).
Con số 1.000 tấn thuốc BVTV các loại được nhập khẩu hàng năm vào nước ta là con số được cấp phép nhập khẩu chính ngạch, còn lại số thực nhập, được thông quan qua đường tiểu ngạch và cả số nhập lậu qua biên giới không kiểm soát được chưa biết sẽ là bao nhiêu tấn.
Riêng tại Nghệ An bình quân hàng năm toàn tỉnh đã sử dụng từ 350 - 400 tấn thuốc BVTV các loại.
Tất cả những việc làm, những con số nói trên, có thể nói rằng chúng ta đang tự đầu độc chính mình.
Cụ thể là tại hội trường Quốc hội, trong phiên họp vừa qua khi thảo luận về kết quả giám sát chuyên đề "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về an toàn thực phẩm giai đoạn 2011 - 2016" có một con số do đoàn giám sát chuyên đề về an toàn thực phẩm công bố tại hội trường Quốc hội đó là: "Mỗi năm cả nước có khoảng 70.000 người chết vì ung thư và hơn 200.000 ca phát hiện mới, trong đó có một phần nguyên nhân từ việc sử dụng thực phẩm không an toàn". Còn theo điều tra của Hiệp hội ung thư thế giới, có khoảng 35% ca mắc ung thư có nguồn gốc từ thực phẩm không an toàn.
Rõ ràng hầu hết thực phẩm không an toàn là những loại được sử dụng phần lớn các loại hóa chất độc hại dùng trong SXNN, trong đó thuốc BVTV chiếm vị trí chủ yếu gây ra.
Đâu là những hạn chế khi sử dụng thuốc BVTV:
Sử dụng thuốc BVTV quá liều lượng khuyến cáo, sử dụng sai mục đích, hiểu biết và trách nhiệm xã hội của người sử dụng thuốc BVTV còn rất hạn chế… Là những nguyên nhân chính gây ra tình trạng kháng thuốc của sâu bệnh, làm giảm hiệu lực của thuốc và cơ thể gây ra tình trạng vượt mức dư lượng tối đa cho phép (MRLs) trên nông sản. Mức dư lượng tối đa cho phép (Maximum Residue Limit, hay MRL) là mức đánh dấu giới hạn thuốc BVTV được phép có trong các loại thực phẩm và được xác định riêng cho từng loại chất, từng loại cây trồng và theo tiêu chuẩn của mỗi quốc gia. Thực chất MRL là các tiêu chuẩn thương mại mà các quốc gia nhập khẩu nông sản xây dựng ra và được sử dụng như là một biện pháp để kiểm tra việc tuân thủ các biện pháp thực hành nông nghiệp tốt (GAP) của nông dân các nước xuất khẩu nhằm bảo vệ sức khỏe con người và môi trường chứ không phải là chỉ tiêu để đánh giá về an toàn thực phẩm. Trong một số trường hợp MRL còn được các nước nhập khẩu sử dụng như là một hàng rào kỹ thuật để kiểm soát dòng hàng hóa nông sản nhập khẩu.
Vì vậy dư lượng thuốc BVTV khi vượt quá mức cho phép tối đa theo quy định của một nước nhập khẩu không đồng nghĩa với nông sản an toàn.
Sử dụng đúng thuốc và chỉ dùng khi cần thiết:
Sử dụng nhiều, sử dụng không đúng thuốc BVTV sẽ gây ra nguy hại cho sức khỏe con người, cho mọi sinh vật và làm ô nhiễm môi trường. Nhưng không thể không sử dụng vì mục đích bảo vệ cây trồng, bảo vệ kết quả sản xuất. Trước hết về mặt quản lý nhà nước, ở TW là Bộ NN & PTNT nói chung và Cục BVTV nói riêng, ở Tỉnh Sở NN & PTNT và Chi cục trồng trọt - BVTV nói riêng là đơn vị quản lý nhà nước chuyên ngành cần ban hành nhiều Thông tư hướng dẫn thật cụ thể có liên quan đến vấn đề đăng ký, quản lý, sản xuất, kinh doanh và sử dụng thuốc BVTV. Đặc biệt cần quy định rõ ràng, cụ thể về điều kiện được phép sản xuất, kinh doanh các loại thuốc BVTV để tránh tình trạng kinh doanh, buôn bán tràn lan thuốc BVTV như hiện nay.
Một trong những biện pháp quan trọng về quản lý kỹ thuật thuốc BVTV hiện nay, đó là tăng cường công tác thanh tra việc sử dụng thuốc nhằm bảo đảm sử dụng thuốc có trách nhiệm, an toàn và hiệu quả theo đúng khuyến cáo của nhà sản xuất, của cán bộ kỹ thuật. Tình trạng sử dụng thuốc lẫn lộn giữa trừ sâu, trừ bệnh; sử dụng thuốc không đúng đối tượng sâu hoặc bệnh cần phải tiêu diệt; sử dụng thuốc tùy tiện về liều lượng sử dụng và kỹ thuật pha chế; sử dụng thuốc không đúng thời điểm cần sử dụng, phun nhiều lần mà hiệu quả không cao, gây tốn kém và kháng thuốc v.v…
Vì vậy phải hết sức chú trọng công tác huấn luyện về quản lý, về kinh doanh và về sử dụng thuốc BVTV cho nông dân, cho các đại lý nhằm nâng cao trình độ cũng như nhận thức của người sử dụng và người kinh doanh thuốc BVTV.
Các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành BVTV và các cơ quan làm công tác khuyến nông cần tập huấn hướng dẫn nông dân sử dụng đúng thuốc chữa trị đúng loại sâu bệnh, thời điểm chữa trị, liều lượng thuốc sử dụng và chỉ sử dụng thuốc BVTV khi cần thiết.